Phẫu thuật ổ bụng là gì? Các công bố khoa học về Phẫu thuật ổ bụng

Phẫu thuật ổ bụng, còn được gọi là phẫu thuật bụng hay phẫu thuật tiểu phẫu, là quá trình can thiệp một phần hoặc toàn bộ vào các cơ quan và mô trong vùng ổ bụn...

Phẫu thuật ổ bụng, còn được gọi là phẫu thuật bụng hay phẫu thuật tiểu phẫu, là quá trình can thiệp một phần hoặc toàn bộ vào các cơ quan và mô trong vùng ổ bụng. Mục đích của phẫu thuật này có thể là chẩn đoán, điều trị hoặc phục hồi chức năng của các cơ quan trong ổ bụng bị tổn thương hoặc bệnh tật. Các ví dụ về phẫu thuật ổ bụng bao gồm phẫu thuật ruột non, phẫu thuật mật, phẫu thuật thận hoặc phẫu thuật ung thư vùng bụng.
Phẫu thuật ổ bụng là một quá trình can thiệp vào các cơ quan và mô trong vùng ổ bụng, được thực hiện để chẩn đoán, điều trị hoặc phục hồi chức năng của các cơ quan trong vùng này. Các phẫu thuật ổ bụng có thể được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật tiêu hóa (chuyên về các cơ quan tiêu hóa và ổ bụng), bác sĩ phẫu thuật ung thư hoặc bác sĩ phẫu thuật tổng quát.

Dưới đây là một số phẫu thuật ổ bụng thường gặp:

1. Ruột non: Các phẫu thuật liên quan đến ruột non bao gồm cắt bỏ các khối u ác tính, điều trị viêm ruột non, hoặc sửa các vấn đề về cấu trúc của ruột non như khối u polyp hay ruột xoắn.

2. Mật: Phẫu thuật mật thường được thực hiện để cắt bỏ các khối u ác tính, điều trị viêm mật, loại bỏ các sỏi mật hoặc thực hiện các quá trình khác nhau như ghép gan.

3. Thận: Phẫu thuật thận thường được thực hiện để điều trị các vấn đề liên quan đến thận như loại bỏ các khối u ác tính, điều trị sỏi thận, hoặc thực hiện ghép thận.

4. Ung thư vùng bụng: Phẫu thuật ung thư vùng bụng được sử dụng để cắt bỏ các khối u ác tính trong vùng bụng như ung thư ruột non, ung thư dạ dày, ung thư buồng trứng, ung thư tụy, và các loại ung thư khác.

Các phẫu thuật ổ bụng có thể được thực hiện thông qua các phương pháp mổ truyền thống có dao cắt hoặc thông qua các kỹ thuật nội soi như phẫu thuật nội soi hay cắt giảm xâm nhập. Thời gian hồi phục sau phẫu thuật ổ bụng thường khá lâu và yêu cầu quá trình chăm sóc và hồi phục chặt chẽ.
Dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về một số loại phẫu thuật ổ bụng phổ biến:

1. Phẫu thuật ruột non:
- Cắt bỏ khối u ác tính: Khối u ác tính trong ruột non có thể được cắt bỏ thông qua phẫu thuật. Quá trình này có thể bao gồm việc cắt bỏ một phần của ruột non hoặc vị trí khối u, hoặc thậm chí là cắt bỏ toàn bộ ruột non.
- Điều trị viêm ruột non: Nếu ruột non bị viêm nhiễm, phẫu thuật có thể được thực hiện để loại bỏ các phần bị viêm hoặc sửa chữa các tổn thương.
- Sửa các vấn đề cấu trúc: Ví dụ như ruột xoắn, trong đó ruột non bị xoắn quanh chính nó, gây tắc nghẽn dòng chảy và có thể gây đau và tổn thương nghiêm trọng.

2. Phẫu thuật mật:
- Cắt bỏ khối u ác tính: Nếu mật bị khối u ác tính, phẫu thuật có thể được thực hiện để cắt bỏ khối u và một phần của mật. Đôi khi, phẫu thuật ghép gan có thể cần thiết để thay thế mật bị tổn thương bằng một gan mới.
- Điều trị viêm mật: Phẫu thuật có thể được sử dụng để điều trị các trường hợp viêm mật nặng hoặc tái phát.
- Loại bỏ sỏi mật: Nếu mật chứa những sỏi nhỏ, phẫu thuật có thể được thực hiện để gắp hoặc cắt bỏ chúng.

3. Phẫu thuật thận:
- Cắt bỏ khối u ác tính: Phẫu thuật thận thường được thực hiện để cắt bỏ các khối u ác tính như ung thư thận.
- Điều trị sỏi thận: Nếu có sỏi hình thành trong thận, phẫu thuật có thể được sử dụng để loại bỏ sỏi qua các kỹ thuật như chấp nhận mạch hoặc tiếp cận nội soi.
- Ghép thận: Phẫu thuật ghép thận là quá trình chuyển ghép thận từ một người sang người khác để điều trị suy thận nặng hoặc ung thư thận.

4. Phẫu thuật ung thư vùng bụng:
- Cắt bỏ khối u ác tính: Phẫu thuật ung thư vùng bụng có thể bao gồm loại bỏ các khối u ác tính trong các cơ quan như ruột non, dạ dày, tụy, buồng trứng hoặc các cơ quan khác trong vùng bụng.
- Phẫu thuật hiện đại như phẫu thuật robot được sử dụng để cắt bỏ các khối u ác tính một cách chính xác và ít xâm lấn hơn.

Trước khi quyết định phẫu thuật ổ bụng, bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng của bệnh nhân, cân nhắc lợi ích và nguy cơ của phẫu thuật và thảo luận với bệnh nhân về quyết định điều trị phù hợp nhất cho từng trường hợp cụ thể.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phẫu thuật ổ bụng":

Gánh nặng nội trú của phẫu thuật cắt dính ổ bụng và phụ khoa tại Mỹ Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 11 Số 1 - 2011
Tóm tắt Thông tin nền

Dính nội tạng là các dải mô sẹo xơ, thường là kết quả của phẫu thuật, hình thành giữa các cơ quan và mô nội tạng, làm cho chúng kết nối với nhau một cách bất thường. Dính sau phẫu thuật xảy ra thường xuyên sau phẫu thuật ổ bụng và đi kèm với gánh nặng kinh tế lớn. Nghiên cứu này xem xét gánh nặng bệnh nhân nội trú của phẫu thuật cắt dính tại Hoa Kỳ (tức là số lượng và tỷ lệ sự kiện, chi phí, thời gian nằm viện [LOS]).

Phương pháp

Dữ liệu xuất viện của bệnh nhân với phẫu thuật cắt dính chính và thứ phát đã được phân tích sử dụng Dự án Chi phí và Sử dụng Dịch vụ Y tế Quốc gia (Healthcare Cost and Utilization Project) năm 2005. Các quy trình được tổng hợp theo hệ thống cơ thể.

Kết quả

Chúng tôi xác định được 351.777 ca nhập viện liên quan đến phẫu thuật cắt dính: 23,2% cho phẫu thuật cắt dính chính và 76,8% cho phẫu thuật cắt dính thứ phát. Thời gian nằm viện trung bình là 7,8 ngày cho phẫu thuật cắt dính chính. Chúng tôi nhận thấy rằng 967.332 ngày chăm sóc được phân bổ cho các quy trình liên quan đến phẫu thuật cắt dính, với tổng chi phí nội trú lên tới 2,3 tỷ USD (1,4 tỷ USD cho phẫu thuật cắt dính chính; 926 triệu USD cho phẫu thuật cắt dính thứ phát). Số lần nhập viện vì phẫu thuật cắt dính tăng đều theo độ tuổi và cao hơn ở phụ nữ. Trong số các quy trình cắt dính thứ phát, 46,3% liên quan đến hệ sinh sản nữ, dẫn đến 57.005 ngày chăm sóc bổ sung và 220 triệu USD chi phí phát sinh.

Kết luận

Phẫu thuật cắt dính vẫn là một vấn đề phẫu thuật quan trọng tại Hoa Kỳ. Nhập viện vì tình trạng này dẫn đến chi phí phẫu thuật trực tiếp cao, điều này nên được các nhà cung cấp và người thanh toán quan tâm.

Phẫu Thuật Lấy Đuôi Tuỵ Bảo Tồn Môn Vị: Ảnh Hưởng Của Kiểu Tái Construct Billroth I So Với Billroth II Đến Sự Rỗng Dạ Dày Dịch bởi AI
Digestive Surgery - Tập 18 Số 5 - Trang 376-380 - 2001

<i>Bối cảnh/Mục tiêu:</i> Sự rỗng dạ dày chậm (DGE) là một vấn đề phổ biến sau phẫu thuật lấy đuôi tuỵ bảo tồn môn vị. Các yếu tố nguy cơ quan trọng bao gồm sự có mặt của các biến chứng trong ổ bụng. Nhằm tìm kiếm các nguyên nhân khác, nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của loại tái cấu trúc sau phẫu thuật lấy đuôi tuỵ (Billroth I so với Billroth II; B I so với B II) đến DGE. <i>Phương pháp:</i> Một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện đánh giá các bệnh nhân liên tiếp từ hai viện phẫu thuật. 174 bệnh nhân được bao gồm (loại tái cấu trúc B II n = 123, thời gian 1992–1996; loại tái cấu trúc B I n = 51, thời gian 1988–1998). DGE được định nghĩa bởi hiện tượng dạ dày không rỗng yêu cầu đặt ống thông mũi dạ dày trong 10 ngày hoặc lâu hơn hoặc không thể dung nạp chế độ ăn bình thường vào hoặc trước ngày thứ 14 sau phẫu thuật. <i>Kết quả:</i> Sau khi tái cấu trúc loại B I, thời gian đặt ống thông mũi dạ dày kéo dài đáng kể so với loại B II (B I trung bình 13 ngày, khoảng 4–47, B II trung bình 6 ngày, khoảng 1–40; p < 0.05). Không có sự khác biệt về sự bắt đầu chế độ ăn bình thường sau phẫu thuật. Cũng có một số lượng bệnh nhân có DGE sau tái cấu trúc B I lớn đáng kể (76%) so với tái cấu trúc B II (32%; p < 0.05). <i>Kết luận:</i> Kết quả từ nghiên cứu này chỉ ra sự gia tăng đáng kể tỉ lệ DGE sau tái cấu trúc loại B I so với loại B II. Nguyên nhân vẫn còn mang tính suy đoán.

#rỗng dạ dày chậm #phẫu thuật lấy đuôi tuỵ bảo tồn môn vị #tái cấu trúc Billroth I #tái cấu trúc Billroth II #biến chứng ổ bụng
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT UNG THƯ TRỰC TRÀNG TRUNG BÌNH TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Phẫu thuật đóng vai trò trong điều trị ung thư trực tràng trung bình. Nghiên cứu được thực hiện với mục đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật ung thư trực tràng trung bình tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 55 bệnh nhânung thư trực tràng (UTTT) trung bình được phẫu thuật cắt đoạn trực tràng tại bệnh viện Ung bướu Hà Nội từ năm 2015đến 2020. Kết quả: Độ tuổi trung bình là 61,60. Tỷ lệ nữ/ nam =1,04. 92,7% bệnh nhân vào viện vìđại tiện phân nhầy máu. 89% bệnh nhân được lập lại lưu thông, tất cả đều sử dụng máy nối. 11% bệnh nhân được phẫu thuật Hartmann. Số lượng hạch vét được: 8,60 ± 3,15. Thời gian phẫu thuật trung bình: 109,09 ± 21,69 phút. Thời gian hậu phẫu trung bình: 8,91± 2,26 ngày. Tỷ lệ tai biến trong mổ: 3,6%. Tỷ lệ biến chứng hậu phẫu: 9,1%. Kết luận: Phẫu thuật trong ung thư trực tràng trung bình tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội được thực hiện an toàn vớitỉ lệ tai biến trong mổ và sau mổ thấp và thời gian nằm viện ngắn.
#Ung thư trực tràng trung bình #phẫu thuật cắt đoạn trực tràng đường bụng
Mối liên hệ giữa hoạt động của cholinesterase và delirium sau phẫu thuật ở bệnh nhân phẫu thuật bụng lớn tuổi Dịch bởi AI
BMC Anesthesiology - Tập 22 Số 1
Tóm tắt Đặt vấn đề

Delirium sau phẫu thuật (POD) là một biến chứng thường gặp sau phẫu thuật. Bệnh nhân lớn tuổi trải qua phẫu thuật bụng có nguy cơ cao phát triển POD. Các nghiên cứu về mối liên hệ giữa hoạt động cholinesterase và POD là khá hiếm, nhưng các giả thuyết chủ yếu cho rằng đường đi cholinergic có thể đóng một vai trò quan trọng trong viêm thần kinh và sự phát triển của POD. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu liệu có mối liên hệ giữa sự phát triển của POD và hoạt động acetyl- và butyrylcholinesterase (AChE và BuChE) ở bệnh nhân lớn tuổi trải qua phẫu thuật bụng hay không.

Phương pháp

Nghiên cứu được thực hiện với một phân nhóm bệnh nhân tham gia nghiên cứu BioCog. Dự án BioCog (http://www.biocog.eu) là một nghiên cứu quan sát đa trung tâm tiềm năng ở bệnh nhân phẫu thuật lớn tuổi. Những bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên trải qua phẫu thuật tự chọn ít nhất 60 phút và có điểm số trên 23 trong Bài kiểm tra trạng thái tinh thần Mini-Mental-State-Examination được đưa vào nghiên cứu. POD được đánh giá hai lần mỗi ngày trong bảy ngày liên tiếp sau phẫu thuật, sử dụng các công cụ kiểm tra Thang đo sàng lọc delirium điều dưỡng (Nu-Desc) và Phương pháp đánh giá nhầm lẫn (CAM và CAM-ICU) và xem xét hồ sơ bệnh nhân. Hoạt động cholinesterase trong máu trước và sau phẫu thuật được đo bằng phương pháp định lượng quang tại điểm nhanh. Mối liên hệ giữa hoạt động cholinesterase và POD được phân tích trong một phân nhóm bệnh nhân phẫu thuật bụng bằng cách sử dụng phân tích hồi quy logistic đa biến điều chỉnh cho các yếu tố gây nhiễu.

Kết quả

Bận 127 bệnh nhân đã được đưa vào phân tích (tuổi trung bình 73 tuổi, 59% nữ). Năm mươi hai bệnh nhân (41%) thỏa mãn tiêu chí của POD. Những bệnh nhân này có tuổi cao hơn, thời gian phẫu thuật và gây mê dài hơn và đạt được điểm số bệnh đồng cao hơn so với những bệnh nhân không có POD. Sau khi điều chỉnh cho tuổi tác, thời gian phẫu thuật và chỉ số bệnh đồng Charlson, chúng tôi phát hiện ra mối liên hệ giữa hoạt động AChE trước và sau phẫu thuật (U/gHb) và sự phát triển của POD (Tỷ lệ odds (OR), [Khoảng tin cậy 95% (CI)], trước phẫu thuật 0.95 [0.89–1.00], sau phẫu thuật 0.94 [0.89–1.00]).

Kết luận

Chúng tôi đã tìm thấy mối liên hệ giữa POD và hoạt động AChE và cung cấp thông tin mới liên quan đến bệnh nhân phẫu thuật bụng. Các phân tích trong tương lai cần xem xét động lực học của hoạt động cholinesterase sau phẫu thuật nhằm làm rõ các tương tác giữa hệ thống cholinergic và các cơ chế bệnh sinh dẫn đến POD.

Đăng ký thử nghiệm

ClinicalTrials.gov: NCT02265263.

Phẫu thuật nội soi bóc u cơ thực quản lành tính tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
U cơ thực quản là khối u lành tính thường gặp nhất của thực quản và phẫu thuật bóc u là phương pháp cơ bản trong điều trị bệnh. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả của phẫu thuật nội soi bóc u cơ thực quản lành tính tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả nghiêu cứu cho thấy: 36 bệnh nhân được bóc u cơ thực quản lành tính (UCTQLT) bằng phẫu thuật nội soi (PTNS) bao gồm 26 bệnh nhân nam (72%) và 10 bệnh nhân nữ (28%), tuổi trung bình 50,4 ± 11,4 (24 ÷ 78 tuổi). 29 bệnh nhân có triệu chứng (80,6%) và 7 bệnh nhân không triệu chứng (19,4%). Tỷ lệ khối u ở thực quản ngực 1/3 trên; 1/3 giữa; 1/3 dưới thực quản đến tâm vị lần lượt là: 8,3% (3 bệnh nhân); 30,6% (11 bệnh nhân); 61,1% (22 bệnh nhân). Kích thước trung bình khối u là 2,9 ± 1,1 cm (1,8 ÷ 6 cm). Phẫu thuật nội soi bóc u qua đường bụng được thực hiện cho 17 bệnh nhân (47,2%), chỉ định với các khối u thực quản thấp sát tâm vị. Nội soi qua đường ngực cho 19 bệnh nhân (52,8%), tất cả đều qua đường ngực phải. Sử dụng 3 trocarts trong 9 trường hợp (25%), 4 trocarts trong 10 trường hợp (27,8%), 5 trocarts trong 17 trường hợp (47,2%). Không có tai biến, biến chứng nặng trong và sau mổ. Thời gian mổ trung bình là 124 ± 47 phút (60 ÷ 240 phút), trong đó đối với đường nội soi ngực thời gian mổ trung bình là 107 ± 16 phút (90 ÷ 120 phút), mổ nội soi qua đường bụng là 137 ± 57 phút (60 ÷ 240 phút). Thời gian nằm viện trung bình 7,4 ± 1,9 ngày (4 ngày ÷ 12 ngày). Phẫu thuật nội soi bóc u cơ thực quản lành tính là phẫu thuật an toàn, tỷ lệ thành công cao, ít tai biến, biến chứng sau mổ. Phẫu thuật nội soi qua đường ngực có thể áp dụng cho phần lớn các trường hợp u cơ thực quản ngực, đường bụng áp dụng cho các u cơ thực quản thấp, sát tâm vị để có thể tạo van chống trào ngược sau bóc u.
#U cơ thực quản #Phẫu thuật bóc u qua nội soi bụng #Phẫu thuật bóc u qua nội soi ngực.
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT NỘI SOI QUA HAI ĐƯỜNG NGỰC – BỤNG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu ứng dụng phẫu thuật nội soi qua hai đường ngực bụng để điều trị ung thư thực quản tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả kết quả 20 trường hợp được phẫu  thuật nội soi ngực bụng cắt thực quản do ung thư tại Khoa ngoại tổng hợp Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 2/ 2020 đến tháng 2/2020. Kết quả: Tổng số 20 bệnh nhân nam đầu tiên được phẫu thuật, 100% bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng sấp thì ngực, nằm ngửa, dạng chân ở thì bụng. Tất cả các trường hợp đều thực hiện thành công với 19 trường hợp để miệng nối ở cổ, 1 trường hợp miệng nối trong ngực. Thời gian mổ trung bình 280 ± 20 phút, thời gian nằm viện trung bình là 9,4 ±2,1ngày. Không có tai biến trong mổ. Biến chứng rò miệng nối 1trường hợp (5% ),tràn dịch màng phổi 1 trường hợp (5%). Kết luận: Phẫu thuật nội soi ngực bụng cắt thực quản tạo hình điều trị ung thư thực quản là phẫu thuật ít xâm hại, an toàn và hiệu quả, sau mổ phục hồi sớm, ít có biến chứng nặng.
#Cắt thực quản #phẫu thuật nội soi #ung thư thực quản
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ BIẾN CHỨNG VIÊM RUỘT THỪA TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị biến chứng viêm ruột thừa tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả hồi cứu 82 trường hợp được phẫu  thuật nội soi để  điều trị các biến chứng viêm ruột thừa trong 3 năm tại Khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Biến chứng viêm ruột thừa gặp ở cả nam và nữ, tỉ lệ nam/ nữ là 1,4/1. Vị trí thủng ở thân ruột thừa hay gặp nhất (68,3%). Trong phẫu thuật cắt ruột thừa, kẹp gốc ruột thừa bằng hemolock là chủ yếu (90,2%), thời gian mổ trung bình là 65,1±  15,2 phút, thời gian nằm viện trung bình là 5,68 ± 1,2 ngày. Không có tai biến trong mổ, không có tử vong. Tỉ lệ biến chứng là 7,3%. Kết quả tốt là 92,7%, trung bình là 7,3%, xấu 0%. Kết luận: Phẫu thuật nội soi điều trị biến chứng viêm ruột thừa là phẫu thuật ít xâm hại, an toàn và hiệu quả
#Viêm phúc mạc ruột thừa #áp xe ruột thừa #phẫu thuật nội soi cắt ruột thừa #phẫu thuật nội soi ổ bụng
Hội chứng “vạt da chìm” sau phẫu thuật dẫn lưu não thất - ổ bụng trên bệnh nhân đã mở sọ giải áp: Nhân 4 trường hợp
Năm 1977, Yamamura và cộng sự lần đầu tiên đề cập đến hội chứng “vạt da chìm” (Sinking skin flap syndrome) (tạm dịch). Đây là một biến chứng muộn, hiếm gặp sau phẫu thuật mở sọ giải áp rộng. Tuy nhiên, hội chứng này có thể gặp sớm sau phẫu thuật đặt van dẫn lưu não thất - ổ bụng điều trị các giãn não thất sau mở sọ giải áp. Hội chứng “vạt da chìm” thường đi kèm với các triệu chứng thoái hóa thần kinh tiến triển. Chúng tôi báo cáo diễn biến lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và cách thức xử trí hội chứng này trên 4 trường hợp có hội chứng “vạt da chìm” sau phẫu thuật dẫn lưu não thất - ổ bụng trên bệnh nhân đã được mở sọ giải áp. Đánh giá kết quả đạt được kết hợp điểm y văn, cho thấy việc gây tắc dẫn lưu tạm thời kết hợp tạo hình xương sọ sớm là cách thức điều trị hợp lý đối với hội chứng “vạt da chìm”.
#Mở sọ giải áp #tạo hình xương sọ #hội chứng vạt da chìm
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN KHÔNG PHẪU THUẬT VỠ LÁCH TRONG CHẤN THƯƠNG BỤNG KÍN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2021-2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: lách là tạng hay vỡ nhất trong chấn thương bụng kín. Vỡ lách gây chảy máu trong ổ bụng, nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời dễ dẫn đến tử vong, việc điều trị vỡ lách do chấn thương bụng kín đã giúp cho người thầy thuốc ngày càng quan tâm đến việc bảo tồn lách không mổ trên những bệnh nhân có huyết động học ổn định. Tuy nhiên, tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, là một cơ sở ngoại khoa lớn tiếp nhận điều trị cho rất nhiều bệnh nhân các tỉnh Miền Tây, vẫn chưa có một nghiên cứu tổng thể nào để đánh giá kết quả áp dụng phương pháp điều trị bảo tồn lách không mổ trên bệnh nhân. Mục tiêu: mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân vỡ lách trong chấn thương bụng kín tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tất cả những bệnh nhân chấn thương lách đơn thuần hoặc phối hợp tổn thương trong ổ bụng đươc chẩn đoán và chỉ định điều trị không mổ trong 24 giờ đầu tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Kết quả: tỷ lệ điều trị nội khoa thành công 41/42 chiếm 97,6% trong đó bệnh nhân có tuổi 21-55 chiếm đa số 73,8% và có tuổi nhỏ nhất 16 chiếm 1,5%, tuổi lớn nhất 84 chiếm 1,5%. Tuổi trung bình 30,75 ± 15,51; có 33 bệnh nhân nam chiếm 78,6% và nữ 21,4%; Tai nạn giao thông là nguyên nhân hay gặp nhất với 32/42 bệnh nhân chiếm 76.2%; Đa số bệnh nhân khi vào viện có huyết áp tâm thu > 90mmHg chiếm 90,5%; Bệnh nhân đau bụng vùng lách chiếm phần lớn với 71,4%; có 31 bệnh nhân chiếm 73,8% không có tổn thương thành bụng. Tỷ lệ bệnh nhân không chướng bụng chiếm 88,1%. Hầu hết bệnh nhân có dấu hiệu thành bụng với 73,8%; xét nghiệm, tỷ lệ bệnh nhân không thiếu máu chiếm nhiều nhất với 47,6%; Siêu âm: Lượng dịch tự do ổ bụng mức độ ít bình chiếm nhiều nhất với 53,7%; Chấn thương lách độ II và III chiếm phần lớn trong nghiên cứu với tỷ lệ lần lượt là: 31% và 50%. Kết luận: Qua nghiên cứu 42 bệnh nhân chấn thương lách được chỉ định điều trị bảo tồn không mổ của chúng tôi có kết luận: tỷ lệ điều trị nội khoa thành công 41/42 chiếm 97,6%. Bệnh nhân chấn thương lách dưới độ IV, có huyết động ổn định tỷ lệ điều trị bảo tồn cao.
#chấn thương lách
Tổng số: 157   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10